Bước tới nội dung

Liên Hoa Sắc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tôn giả Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc
Liên Hoa Sắc tại chùa Wat Pho, Băng Cốc
Tôn giáoPhật giáo
Chức vụ
Chức danhĐệ tử ni đứng đầu thứ hai của Phật Thích-ca Mâu-ni, đệ tử ni hàng đầu về thần thông.
Hoạt động tôn giáo
Sư phụPhật Thích-ca Mâu-ni

Liên Hoa Sắc (sa. Utpalavarṇā; pi. Uppalavannā; zh. 蓮華色, bính âm: Liánhuásè) là một Tỳ-kheo-ni (ni cô) trong Phật giáo, được xem là một trong những đệ tử ni hàng đầu của Phật. Bà được coi là vị đệ tử ni đứng đầu thứ hai của Phật, cùng với Khema. Bà có tên gọi Uppalavannā (nghĩa là "màu của hoa sen xanh") từ khi mới sinh, do nước da của bà có màu xanh lam.[1][2]

Theo truyền thống Thượng tọa bộ, Liên Hoa Sắc sinh ra là con gái của một thương gia giàu có. Bởi nhan sắc của mình, rất nhiều người cầu hôn giàu sang và quyền thế đã đến gặp cha bà để xin cưới. Thay vì kết hôn, bà đã xuất gia theo Phật làm một Tỳ-kheo-ni. Theo truyền thống Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, Liên Hoa Sắc có một cuộc đời thăng trầm khi làm vợ rồi trở thành kỹ nữ, trước khi quy y Phật giáo và trở thành một Tỳ-kheo-ni.

Liên Hoa Sắc chứng đắc giác ngộ trong khi dùng lửa làm kasina (đối tượng thiền định) chưa đầy hai tuần sau khi thọ giới. Sau khi giác ngộ, bà thành tựu thần túc (các năng lực thần thông), nên Phật tôn xưng bà là đệ tử ni hàng đầu về thần thông. Người đệ tử nam tương ứng với bà chính là Mục Kiền Liên.

Các nguồn kinh văn

[sửa | sửa mã nguồn]

Tư liệu sớm nhất về Liên Hoa Sắc được tìm thấy trên một bia đá khắc vào thế kỷ 3 TCN, khắc họa bà trong sự kiện Phật từ cõi trời Đao Lợi hạ xuống thành Sankassa sau khi lên thăm mẹ tại đó theo truyền thuyết Phật giáo. Liên Hoa Sắc được nhắc đến trong một số kinh điển Phật giáo sơ kỳ thuộc Kinh điển Pali, bao gồm Tương Ưng Bộ kinh, Tăng Chi Bộ kinh, và các tuyển tập Trưởng lão ni kệ cùng Sự nghiệp anh hùng (trong Tiểu Bộ kinh); cũng như trong một số văn bản Phật giáo Đại thừa sơ kỳ như bộ Bát-nhã Ba-la-mật-đa tám vạn bài kệ và luận Đại trí độ luận.[3]

Học giả Phật giáo Tỳ-kheo Bodhi lưu ý rằng, dù được xem là một trong những đệ tử đứng đầu của Phật, chi tiết về cuộc đời Liên Hoa Sắc trong kinh điển và chú giải còn khá ít ỏi. Tỳ-kheo Bodhi chỉ ra rằng trong kinh điển lại ghi chép về một tiền kiếp của bà nhiều hơn là về bản thân vị Tỳ-kheo-ni này.[4]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo quan niệm Phật giáo, mỗi khi một vị Phật xuất hiện trên thế gian, vị Phật toàn giác ấy luôn có một nhóm đệ tử đứng đầu.[5] Đối với vị Phật hiện tại là Thích-ca Mâu-ni, hai đệ tử nam đứng đầu là Xá-lợi-phấtMục Kiền Liên, còn hai đệ tử nữ đứng đầu là Khema và Liên Hoa Sắc.[6]

Theo Kinh điển Pali, trong một kiếp trước Liên Hoa Sắc đã sinh ra làm một người phụ nữ vào thời Phật Padumuttara, và bà từng chứng kiến vị Phật đó tuyên bố một vị ni của mình là đệ tử hàng đầu về thần thông. Sau khi nghe lời tuyên bố ấy, người phụ nữ này đã phát nguyện (adhiṭṭhāna) trở thành đệ tử ni hàng đầu về thần thông dưới thời một vị Phật tương lai, và bà đã làm nhiều việc thiện qua nhiều kiếp sống với hy vọng đạt được điều đó. Nguyện vọng này đã thành tựu vào thời Phật Thích-ca Mâu-ni, khi bà tái sinh thành Liên Hoa Sắc.[7]

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc sống ban đầu và xuất gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên Hoa Sắc có tên gọi như vậy (nghĩa là màu của hoa sen xanh) bởi vì bà sinh ra với nước da màu hoa sen xanh,[1][2] đúng theo điều ước mà người ta nói rằng bà đã phát ra trong một kiếp trước.[7] Theo truyền thống Thượng tọa bộ, Liên Hoa Sắc sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có ở thành Xá-vệ (Pāli: Sāvatthī). Khi trưởng thành, Liên Hoa Sắc nổi tiếng với sắc đẹp tuyệt trần; có nhiều vua chúa và phú hộ đến gặp cha bà để hỏi cưới bà. Không muốn làm quá nhiều người phải thất vọng, và sợ có thể xảy ra xung đột giữa các vị cầu hôn giàu sang quyền thế, người cha đề nghị Liên Hoa Sắc xuất gia làm Tỳ-kheo-ni (tức nữ tu) theo Phật. Vốn đã hướng về đời sống xuất gia, bà hoan hỷ đồng ý và thọ giới với Phật để trở thành một vị ni.[8][9] Theo truyền thống Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, Utpalavarṇā lại sinh ra làm con gái một thương nhân ở Taxila và lấy chồng là một người địa phương. Sau đó bà phát hiện chồng mình ngoại tình với mẹ ruột, liền bỏ ông ta cùng đứa con gái sơ sinh. Utpalavarṇā về sau kết hôn với một người đàn ông khác, và người này cưới thêm một người vợ thứ hai – mà bà phát hiện chính là người con gái mình đã bỏ rơi năm xưa. Quá đau khổ trước sự thật này, bà bỏ đi và trở thành một kỹ nữ, trước khi được Đại Mục Kiền Liên cảm hóa và xuất gia làm ni.[10][11][12][note 1]

Giác ngộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Các kinh văn ghi rằng Liên Hoa Sắc đã chứng ngộ chưa đầy hai tuần sau khi thọ giới Tỳ-kheo-ni.[3][7] Không lâu sau khi trở thành ni cô, đến lượt bà chuẩn bị giảng đường để làm lễ Bố-tát. Trong lúc các ni khác đi vắng, bà thắp một ngọn đèn và bắt đầu quét dọn giảng đường theo phận sự. Sử dụng ánh lửa từ ngọn đèn làm kasina (đối tượng thiền định), bà nhập vào trạng thái định sâu và trở thành một vị Ứng Cúng giác ngộ hoàn toàn (A-la-hán) vào cuối đêm đó.[3][7][14][15]

Đệ tử đứng đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi giác ngộ, Liên Hoa Sắc đạt được sự tinh thông về thần túc (các năng lực thần thông), được mô tả là vượt trội hơn bất kỳ Tỳ-kheo-ni nào khác cùng thời Phật. Do vậy, Phật đã tôn xưng bà là đệ tử ni hàng đầu về thần thông. Phật cũng tán dương khả năng giảng dạy và lãnh đạo của Liên Hoa Sắc, tuyên bố rằng bà và Khema là các đệ tử ni đứng đầu để các ni khác noi theo. Liên Hoa Sắc và Khema chia sẻ danh hiệu đệ tử đứng đầu với các vị đối tác nam tương ứng là Đại Mục Kiền LiênXá-lợi-phất.[3]

Vụ cưỡng hiếp

[sửa | sửa mã nguồn]
Một người đàn ông bị nuốt xuống địa ngục A Tỳ sau khi cố cưỡng hiếp Liên Hoa Sắc.

Theo truyền thống Thượng tọa bộ, có một người đàn ông ham muốn Liên Hoa Sắc từ trước khi bà xuất gia đã lẻn vào am thất của bà và mưu toan cưỡng hiếp bà.[note 2] Liên Hoa Sắc cố gắng dùng thần thông để đào thoát, nhưng do một ác nghiệp trong quá khứ, thần thông của bà bị vô hiệu và vụ cưỡng hiếp vẫn diễn ra. Tên cưỡng hiếp sau đó bị đất nuốt chửng và rơi xuống địa ngục A Tỳ vì tội ác của hắn. Sau sự việc, khi được hỏi, Phật nói rằng Liên Hoa Sắc không hề phạm giới dâm của người xuất gia vì bà không hề tự nguyện. Sự kiện này dẫn đến việc đặt ra một điều luật cấm các ni ở một mình nơi hoang vắng để phòng ngừa những trường hợp tương tự.[3][9][15]

Phép màu Chuyển luân vương

[sửa | sửa mã nguồn]

Màn thị hiện thần thông đáng chú ý nhất của Liên Hoa Sắc là một phép lạ trong đó bà biến hóa thành một Chuyển luân vương (vua chuyển luân), và tạo ra một đoàn tùy tùng lớn để đảnh lễ Phật. Kinh điển ghi rằng bà đã đề nghị thực hiện thần thông này trong sự kiện phép lạ song thông tại Thành Xá-vệ, nhưng Phật từ chối và bảo bà chờ thời cơ thích hợp. Bốn tháng sau, Liên Hoa Sắc đã biểu diễn phép lạ đó tại thành Sankassa khi Phật từ cõi trời Đao Lợi trở về nhân gian sau mùa an cư.[3][9]

Chạm trán Ma vương

[sửa | sửa mã nguồn]

Một lần, khi Liên Hoa Sắc đang thiền định một mình trong rừng, Ma vương xuất hiện để phá rối sự tập trung của bà. Ma vương hiện ra và bảo rằng bà nên e sợ bọn bất lương, bởi lẽ một nữ nhân trẻ đẹp ngồi một mình nơi hoang vắng rất dễ gặp nguy hiểm. Là một bậc A-la-hán, Liên Hoa Sắc nhìn thấu trò hăm dọa này và mô tả những thần thông của mình, giải thích với Ma vương rằng bà làm chủ được tâm mình và chẳng có gì phải sợ. Thất vọng vì không thể lay chuyển sự định tâm của bà, Ma vương đành bỏ đi.[3][9][15][16]

Liên Hoa Sắc giữ vai trò bổ trợ tương ứng với người đệ tử nam cùng cặp là Đại Mục Kiền Liên. Ni sư người Mỹ Tathālokā Therī chỉ ra rằng câu chuyện Liên Hoa Sắc bị cưỡng hiếp trong truyền thống Pāli có chung chủ đề với trường hợp của Mục Kiền Liên, khi thần thông của ông cũng từng đột ngột mất hiệu lực một lần do nghiệp xấu trong quá khứ, khiến ông không thể trốn thoát và bị một nhóm cướp giết chết.[3] Nhà nhân chủng học Ranjini Obeyesekere nhận xét rằng trong hai cặp đệ tử đứng đầu của Phật, mỗi cặp gồm một vị da sẫm màu (Mục Kiền Liên và Liên Hoa Sắc) và một vị da sáng màu (Xá-lợi-phấtKhema). Obeyesekere lập luận rằng sự ghép cặp này nhằm tượng trưng cho tính bao trùm của giáo pháp nhà Phật, rằng Pháp (Dhamma) dành cho mọi người thuộc mọi màu da và tầng lớp.[17]

  1. ^ Truyền thống Thượng tọa bộ cũng kể một câu chuyện tương tự với nhân vật Gangatiriya. Trong chuyện này, Gangatiriya bị mẹ bỏ rơi ngay từ khi mới sinh và lớn lên đã vô tình cưới chính mẹ ruột cùng người chị gái thất lạc của mình.[11] Theo truyền thống Thượng tọa bộ, Liên Hoa Sắc kể lại câu chuyện này để phản ánh tác hại của dục vọng, nhưng nó không được xem là chuyện tự thuật của bà.[10][13]
  2. ^ Trong các truyền thống Pháp Tạng bộCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, nạn nhân bị cưỡng hiếp trong câu chuyện này là một ni khác chứ không phải Utpalavarṇā. Trong truyền bản Đại Tạng kinh Tây Tạng, nạn nhân cũng là một ni khác, nhưng Liên Hoa Sắc đã dùng thần thông để cứu người này.[3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Gombrich, Richard F. (ngày 12 tháng 11 năm 2012). Buddhist Precept & Practice. Hoboken: Routledge. tr. 208. ISBN 978-1-136-15616-8.
  2. ^ a b Durán, Tomás Morales y (ngày 4 tháng 11 năm 2020). Treatise on Wisdom - 4. Libros de Verdad. tr. 4. ISBN 979-8-5623-1386-7.
  3. ^ a b c d e f g h i Therī, Tathālokā. "The Amazing Transformations of Arahant Theri Uppalavanna" (PDF). bhikkhuni.et. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019.
  4. ^ Thera, Nyanaponika (2012). Great Disciples of the Buddha : Their Lives, Their Works, Their Legacy. Hecker, Hellmuth., Bodhi, Bhikkhu. New York: Wisdom Publications. tr. XXVIII. ISBN 9780861718641. OCLC 793166695. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2018.
  5. ^ Emmanuel, Steven M., biên tập (ngày 22 tháng 1 năm 2013). A companion to Buddhist philosophy (PDF). Chichester, West Sussex, United Kingdom: Wiley-Blackwell. tr. 455. ISBN 978-1-118-32391-5. OCLC 809845201. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2020.
  6. ^ Mahathera, Naranda (1998). The Buddha and His Teachings (PDF). Taiwan: Buddha Dharma Education Association Inc. tr. 235. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019.
  7. ^ a b c d "03. The Story about the Elder Nun Uppalavanna". www.ancient-buddhist-texts.net. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2019.
  8. ^ Theri, Tathaloka. "The Amazing Transformations of Arahant Theri Uppalavanna" (PDF). bhikkhuni.net (bằng tiếng Anh). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019.
  9. ^ a b c d "Uppalavannā". www.palikanon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2019.
  10. ^ a b Silk, Jonathan A. (2009). Riven by Lust: Incest and Schism in Indian Buddhist Legend and Historiography (bằng tiếng Anh). University of Hawaii Press. tr. 137–163. ISBN 9780824830908. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2020.
  11. ^ a b Murcott, Susan (ngày 14 tháng 2 năm 2006). First Buddhist Women: Poems and Stories of Awakening (bằng tiếng Anh). Parallax Press. tr. 82. ISBN 9781888375541. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2019.
  12. ^ Mohr, Thea; Tsedroen, Jampa (ngày 11 tháng 5 năm 2010). Dignity and Discipline: Reviving Full Ordination for Buddhist Nuns (bằng tiếng Anh). Simon and Schuster. tr. 201–203. ISBN 9780861715886. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2019.
  13. ^ Malalasekera, Gunapala Piyasena (2007). Dictionary of Pāli Proper Names: A-Dh (bằng tiếng Anh). Motilal Banarsidass Publishers. tr. 419. ISBN 9788120830219. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2019.
  14. ^ Buswell, Robert E. Jr.; Lopez, Donald S. Jr. (ngày 24 tháng 11 năm 2013). The Princeton Dictionary of Buddhism (bằng tiếng Anh). Princeton University Press. tr. 945. ISBN 9781400848058. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019.
  15. ^ a b c Susan Murcott (2006). "The first Buddhist women poems & stories of awakening". Google Books. Parallax Press. tr. 80-86. ISBN 9781888375541. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2025.
  16. ^ "Uppalavanna Sutta: Uppalavanna". www.accesstoinsight.org. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2019.
  17. ^ Dharmasēna, Thera (2001). "Utpalavarṇā". Portraits of Buddhist women : stories from the Saddharmaratnāvaliya. Obeyesekere, Ranjini biên dịch. Albany: State University of New York Press. tr. 109–110. ISBN 0791451119. OCLC 46937658.